Ngày 20 tháng 4 năm 2007, Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá XI đã thông qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đây là văn bản pháp lý quan trọng nhằm phát huy quyền dân chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
I. Sự cần thiết xây dựng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị đã xác định "... để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất’’.
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, để cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 (sau được sửa đổi bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003) kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định các nội dung, phương thức và trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu một bước việc thể chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' của Đảng nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở.
Qua 9 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực và tương đối toàn diện. Quy chế đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống sinh hoạt chính trị, xã hội ở các địa phương trong cả nước, nâng cao nhận thức về quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, giám sát hoạt động của chính quyền, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng tại cơ sở xã, phường, thị trấn. Thực hiện Quy chế dân chủ, chính quyền cấp xã bước đầu được kiện toàn, lề lối, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ cơ sở đã có nhiều thay đổi theo hướng gần dân và phục vụ nhân dân tốt hơn. Quy chế dân chủ đã góp phần mang lại hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa và bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở cơ sở, tạo được sự đồng thuận lớn trong nhân dân.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được nêu trên mới chỉ là bước đầu, vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém trong triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Ở một số nơi, nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền và cán bộ, công chức, đảng viên chưa đầy đủ, chưa thấy hết tầm quan trọng của triển khai và thực hiện tốt Quy chế sẽ mang đến nhiều thay đổi tích cực trong đời sống xã hội ở địa phương; vẫn còn xảy ra tình trạng hạn chế hoặc cản trở việc thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Ở nhiều địa phương, tình trạng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở còn hình thức, tổ chức triển khai chưa đồng bộ và thường xuyên. Quyền làm chủ của nhân dân ở không ít nơi vẫn chưa được thực hiện một cách đầy đủ theo tinh thần của Quy chế, quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân vẫn có nơi, có lúc bị hạn chế, thậm chí bị vi phạm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, một số quy định của Quy chế dân chủ còn hạn chế về mặt nội dung, chưa phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi khi áp dụng; hiệu lực pháp lý mới chỉ dừng ở Nghị định của Chính phủ đã ít nhiều hạn chế tác động của Quy chế tới thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở.
Mở rộng và phát huy dân chủ là xu hướng khách quan của tiến bộ xã hộ, nhất là hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, mở rộng và nâng cao dân chủ sẽ góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ mới, Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định chủ trương “Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân” và “Phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển nước ta”.
Trong thời gian gần đây nhiều vấn đề liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật như Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Pháp lệnh cán bộ, công chức; Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí … Do đó, các quy định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cần được nâng tầm hiệu lực pháp lý cao hơn nghị định để điều chỉnh việc thực hiện dân chủ, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
Nhằm tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, tồn tại trong nội dung Quy chế dân chủ và trong cách thức triển khai thực hiện Quy chế dân chủ những năm qua; thể chế hóa những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngay từ cơ sở thì việc nghiên cứu, hoàn thiện văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nâng cao hiệu lực pháp lý của văn bản ở cấp độ Nghị định lên Pháp lệnh đặt ra yêu cầu bức thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phát huy dân chủ trực tiếp và tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của mình tại cơ sở xã, phường, thị trấn theo chủ trương của giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
II. Quan điểm xây dựng pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
1. Đảm bảo cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ";
2. Quán triệt quan điểm Đại hội X của Đảng đã đề ra “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”.
3. Kế thừa có chọn lọc và nâng cao tính pháp lý của nội dung Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ban hành kèm theo Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07-7-2003 của Chính phủ và tiếp thu những nội dung về dân chủ đã được các văn bản pháp luật khác thể chế hoá trong các luật và văn bản pháp luật chuyên ngành;
4. Mở rộng và phát huy dân chủ của nhân dân thông qua hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, nhằm thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; khắc phục tình trạng mất dân chủ, dân chủ hình thức và lợi dụng dân chủ.
5. Phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, quyền lợi đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ trong khuôn khổ pháp luật.
III. Bố cục và những nội dung cơ bản của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
A. Bố cục của Pháp lệnh :
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn gồm 6 chương, 28 điều với bố cục như sau:
Chương I. Những quy định chung
Gồm 4 điều (từ Điều 1 đến Điều 4) quy định phạm vi điều chỉnh; nguyên tắc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã; các hành vi bị nghiêm cấm.
Chương II. Những nội dung công khai để nhân dân biết
Gồm 5 điều (từ Điều 5 đến Điều 9) quy định những nội dung công khai; hình thức công khai; việc công khai bằng hình thức niêm yết; việc công khai trên hệ thống truyền thanh và thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân; trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội dung công khai.
Chương III. Những nội dung nhân dân bàn và quyết định
Chương này chia thành 3 mục, gồm 9 điều (từ Điều 10 đến Điều 18) quy định những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; hình thức nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; giá trị thi hành đối với những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định; hình thức nhân dân bàn, biểu quyết; giá trị thi hành đối với những việc nhân dân bàn, biểu quyết; việc công nhận những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết; trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã; trách nhiệm của Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố trong việc thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết định.
Chương IV. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định
Gồm 4 điều (từ Điều 19 đến Điều 22) quy định những nội dung nhân dân tham gia ý kiến; hình thức để nhân dân tham gia ý kiến; trách nhiệm của chính quyền cấp xã về tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền cấp trên về tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân cấp xã tham gia ý kiến.
Chương V. Những nội dung nhân dân giám sát
Gồm 4 điều (từ Điều 23 đến Điều 26) quy định những nội dung nhân dân giám sát; hình thức để thực hiện việc giám sát của nhân dân; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện giám sát của nhân dân; lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Chương VI. Điều khoản thi hành
Chương này gồm 2 điều (Điều 27 và Điều 28) quy định hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh.
B. Những nội dung cơ bản của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
1. Phạm vi điều chỉnh
Phạm vi điều chỉnh quy định trong Pháp lệnh chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa chính quyền cấp xã và nhân dân ở xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân. Cụ thể, Pháp lệnh quy định những nội dung chính quyền cấp xã phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, tổ dân phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
2. Nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã
Để đảm bảo việc thực hiện các nội dung dân chủ đúng pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn, nhất là các quyền dân chủ trực tiếp, Pháp lệnh đã quy định cụ thể các nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Các nguyên tắc này cũng chính là các tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong toàn bộ nội dung Pháp lệnh, bao gồm các nguyên tắc: Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
3. Các hành vi bị nghiêm cấm
Pháp lệnh cũng đã quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm trong quá trình thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn như: hành vi không thực hiện hoặc làm trái các quy định của Pháp lệnh về thực hiện dân chủ; hành vi trù dập người khiếu nại, tố cáo; hoặc hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
4. Những nội dung công khai để nhân dân biết
4.1. Pháp lệnh quy định 11 nội dung chính quyền cấp xã phải công khai cho nhân dân biết, đây là những nội dung liên quan trực tiếp đến người dân, gắn liền với quyền và lợi ích của nhân dân, được nhân dân quan tâm, bao gồm những nhóm nội dung chính sau:
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã;
- Các dự án, công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã;
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân;
- Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
- Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế;
- Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã;
- Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã;
- Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân;
- Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu;
- Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện;
- Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
4.2. Pháp lệnh quy định rõ các hình thức công khai gồm: Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã; Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.
Ngoài ra, nhằm tạo ra nhiều kênh thông tin để nhân dân nắm bắt rõ hơn việc công khai, Pháp lệnh còn quy định chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai cho cùng một nội dung; thực hiện việc cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 32 của Luật phòng, chống tham nhũng.
Đối với những nội dung được nhân dân quan tâm nhất, liên quan trực tiếp nhất đến quyền lợi của nhân dân thì Pháp lệnh còn quy định bắt buộc phải được công khai bằng hình thức niêm yết tại trụ sở Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã trong thời gian chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản được thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận được văn bản đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, bao gồm:
- Các dự án, công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã; Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu. Đối với các nội dung này, thời gian niêm yết là 30 ngày liên tục kể từ ngày niêm yết.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân; Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện. Đối với các nội dung này, thời gian niêm là phải thường xuyên, liên tục.
4.3. Trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội dung công khai
- Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm lập, thông qua kế hoạch thực hiện những nội dung công khai, trong đó nêu rõ cách thức triển khai thực hiện, thời gian thực hiện và trách nhiệm tổ chức thực hiện.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch, phương án đã được thông qua.
- Uỷ ban nhân dân cấp xã báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về quá trình và kết quả thực hiện các nội dung công khai tại kỳ họp gần nhất của Hội đồng nhân dân.
5. Những nội dung nhân dân bàn và quyết định
Pháp lệnh phân định rõ 2 nội dung, đó là những nội dung công việc mà nhân dân bàn và quyết định trực tiếp và những nội dung công việc nhân dân sau khi bàn, biểu quyết đa số, phải được cấp có thẩm quyền công nhận mới có giá trị thi hành.
5.1. Những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm: Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngoài ra để việc thực hiện trong nhân dân được dễ dàng, mang tính đồng thuận cao, Pháp lệnh giao trách nhiệm cho chính quyền cấp xã phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp tổ chức tuyên truyền, vận động, thuyết phục những cử tri, hộ gia đình chưa tán thành trong việc thực hiện những quyết định đã có giá trị thi hành.
5.2. Những nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định, bao gồm: Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố; Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
5.3. Có 2 hình thức để nhân dân bàn và quyết định trực tiếp hoặc biểu quyết, gồm: Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
Quy trình cụ thể được quy định như sau:
- Trường hợp tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình thì việc biểu quyết được thực hiện bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín; hình thức biểu quyết do hội nghị quyết định; nếu số người tán thành chưa đạt quá 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố hoặc trong toàn cấp xã thì tổ chức lại cuộc họp.
- Trường hợp không tổ chức lại được cuộc họp thì phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình. Trừ việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
5.4. Giá trị thi hành đối với những việc nhân dân bàn, biểu quyết:
- Đối với nội dung nhân dân bàn, biểu quyết về hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố, nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành thì có giá trị thi hành sau khi Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) ra quyết định công nhận.
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải lập hồ sơ trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Uỷ ban nhân dân cấp huyện sau khi nhận được hồ sơ, trong thời hạn 7 ngày làm việc phải xem xét, ra quyết định công nhận; trường hợp không công nhận thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
- Đối với nội dung nhân dân bàn, biểu quyết bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành thì có giá trị thi hành sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải xem xét, ra quyết định công nhận; trường hợp không công nhận thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
- Đối với nội dung nhân dân bàn, biểu quyết bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình tán thành thì có giá trị thi hành sau khi được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã công nhận.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã phải xem xét, công nhận; trường hợp không công nhận thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
5.5. Trách nhiệm tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết định
a) Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã
- Uỷ ban nhân dân cấp xã lập, thông qua kế hoạch thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết định; phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp tổ chức thực hiện; chỉ đạo Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố thực hiện kế hoạch đã được thông qua.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm lập biên bản tổng hợp kết quả về những nội dung đã đưa ra nhân dân toàn cấp xã bàn và quyết định; tổ chức triển khai thực hiện những nội dung đã được nhân dân quyết định; phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã tổ chức việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
- Uỷ ban nhân dân cấp xã báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về quá trình và kết quả thực hiện các nội dung nhân dân bàn và quyết định tại kỳ họp gần nhất của Hội đồng nhân dân.
b) Trách nhiệm của Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố
- Chủ trì, phối hợp với Ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình, phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình để nhân dân thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; những nội dung nhân dân bàn và biểu quyết về hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố, về bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
- Lập biên bản về kết quả đã được nhân dân thôn, tổ dân phố bàn và quyết định trực tiếp những công việc của thôn, tổ dân phố.
- Lập biên bản về kết quả đã được nhân dân thôn, tổ dân phố bàn và quyết định trực tiếp những công việc thuộc phạm vi cấp xã; báo cáo kết quả cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
- Tổ chức thực hiện những công việc trong phạm vi thôn, tổ dân phố đã được nhân dân quyết định.
6. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định
6.1. Pháp lệnh quy định 5 nội dung phải đưa ra lấy ý kiến nhân dân trước khi chính quyền cấp xã hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định, bao gồm:
- Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã;
- Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã;
- Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư;
- Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã;
- Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
6.2. Những hình thức để nhân dân tham gia ý kiến bao gồm: Họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình; Thông qua hòm thư góp ý.
6.3. Trách nhiệm tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến
a) Trách nhiệm của chính quyền cấp xã
- Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm lập, thông qua kế hoạch để lấy ý kiến nhân dân về những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã, trong đó nêu rõ cách thức triển khai, thời gian và trách nhiệm tổ chức thực hiện.
- Uỷ ban nhân dân cấp xã phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp tổ chức thực hiện kế hoạch đã được thông qua.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức lấy ý kiến, tổng hợp ý kiến của cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình; nghiên cứu tiếp thu ý kiến và thông báo với nhân dân về tiếp thu ý kiến của cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
Trường hợp chính quyền cấp xã quyết định các nội dung đã đưa ra lấy ý kiến nhân dân mà khác với ý kiến của đa số thì phải nêu rõ lý do và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
- Đối với những nội dung do cơ quan có thẩm quyền giao cho chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân thì Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm lập, thông qua kế hoạch thực hiện, trong đó nêu rõ cách thức triển khai, thời gian và trách nhiệm tổ chức thực hiện; chỉ đạo tổ chức thực hiện, tổng hợp ý kiến và báo cáo với cơ quan có thẩm quyền về kết quả lấy ý kiến nhân dân trên địa bàn.
- Uỷ ban nhân dân cấp xã báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về quá trình và kết quả thực hiện các nội dung đưa ra lấy ý kiến nhân dân tại kỳ họp gần nhất của Hội đồng nhân dân.
b) Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền cấp trên
- Lấy ý kiến nhân dân trước khi quyết định về những việc liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của công dân trên địa bàn cấp xã.
- Chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp xã tổ chức lấy ý kiến nhân dân trên địa bàn cấp xã.
- Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân.
- Tiếp thu ý kiến nhân dân về những nội dung đã đưa ra lấy ý kiến. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền quyết định các nội dung đã đưa ra lấy ý kiến nhân dân mà khác với ý kiến của đa số thì phải nêu rõ lý do và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
7. Những nội dung nhân dân giám sát
7.1. Nhân dân được quyền giám sát tất cả những nội dung phải công khai để nhân dân biết, những nội dung nhân dân bàn và quyết định, những nội dung cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra lấy ý kiến nhân dân quy định trong Pháp lệnh này.
7.2. Hình thức để thực hiện việc giám sát của nhân dân: Bao gồm 2 hình thức là gián tiếp và trực tiếp. Hình thức gián tiếp là thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Hình thức giám sát trực tiếp là thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp xã, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
7.3. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện giám sát của nhân dân
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm như sau :
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết cho Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng;
- Xem xét, giải quyết và trả lời kịp thời các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, kiến nghị của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp xã hoặc báo cáo với cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình.
8. Lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã
Pháp lệnh quy định hai năm một lần trong mỗi nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cấp xã, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Thành phần tham gia lấy phiếu tín nhiệm gồm các thành viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên Ban thường vụ của các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã, Trưởng ban thanh tra nhân dân, Trưởng ban giám sát đầu tư của cộng đồng (nếu có), Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng ban công tác mặt trận thôn, tổ dân phố.
Sau khi tổ chức lấy phiếu tín nhiệm, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã sẽ gửi kết quả lấy phiếu tín nhiệm và kiến nghị của mình tới Hội đồng nhân dân cùng cấp và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
III. Tổ chức thực hiện
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.
1. Về hướng dẫn thi hành: Pháp lệnh giao cho Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn các nội dung:
- Về hình thức nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định;
- Quy trình, thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố;
- Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền cấp trên về tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân cấp xã tham gia ý kiến;
- Quy trình, thủ tục lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
2. Tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Pháp lệnh:
- Bộ Nội vụ, các Bộ, ngành đoàn thể và địa phương, trong phạm vi thẩm quyền của mình, tổ chức các buổi tập huấn cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cán bộ, công chức về những nội dung của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Đưa những nội dung của Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành (sau khi ban hành) để in thành sách, chuyên đề, hỏi đáp, tờ rơi… nhằm phổ biến sâu rộng trong nhân dân về Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Viết bình luận